Saturday, December 5, 2009
Không mặt trời - "Vậy là đã bao mùa qua rồi?"
Friday, December 4, 2009
Không mặt trời
Hình ảnh đầu tiên anh kể cho tôi là về ba đứa trẻ trên một nẻo đường Iceland, năm 1965. Anh nói rằng với anh đó là một hình ảnh hạnh phúc và rằng anh đã thử vài lần kết nối nó với những hình ảnh khác mà không được. Anh viết cho tôi thế này: một ngày mình sẽ phải đưa riêng nó vào đoạn mở đầu của một bộ phim với một đoạn đen dài; nếu người ta không thấy hạnh phúc trong phim, ít ra họ cũng sẽ thấy màu đen.
Anh viết: Mình vừa về từ Hokkaido, hòn đảo phương Bắc. Người Nhật giàu có và vội vã thì đi bằng máy bay, những kẻ khác thì đi tàu phà: đợi chờ, bất động, tranh thủ gà gật. Thật lạ là những cái đó làm mình nghĩ tới một cuộc chiến trong quá khứ hay trong tương lai với những chuyến tàu đêm, những cuộc không kích, những hầm trú ẩn, những mảnh vỡ nhỏ của chiến tranh ám vào cuộc sống hàng ngày. Anh thích cái mong manh của những khoảnh khắc ngưng đọng của thời gian. Những ký ức ấy chỉ có mỗi chức năng là bỏ lại đằng sau mọi thứ ngoại trừ ký ức. Anh viết: Mình đã đi vòng quanh thế giới vài lần và giờ thì chỉ mỗi sự chán chường là còn làm mình quan tâm nữa thôi. Trên chuyến đi này mình đã theo dấu nó không ngơi nghỉ như một thợ săn ngoại hạng. Bình minh bọn mình sẽ tới Tokyo.
Saturday, September 12, 2009
Buồn nôn
Tóc cũng thế. Tóc lúc nào cũng mắc vào giữa những tấm ván sàn gỗ nâu vàng nứt nẻ cọt kẹt kể cả khi nhón chân, đã mất cả màu chẳng còn biết là màu gì, từng nở ra rồi co ngót theo thời tiết để lại những khe toang hoác. Thì cũng phải có chỗ mà mắc tóc vào chứ. Chắc trong ấy cũng có mùi. Rồi tóc trên đệm uốn éo mấy sợi cuốn vào nhau. Rồi tóc xoắn xuýt co kéo bọc lấy chân giường có bánh xe, vốn có thể gập lại thành cái ghế phô tơi nhỏ gọn, nhưng phô tơi thì để làm gì?! Trong cái tủ tắm cũng có tóc: thò ra từ miệng cống một sợi, còn lại thì rối rắm một búi trên mặt cái bàn chải con, chắc từng là bàn chải đánh răng của ai đó ở đây trước kia, màu đỏ, nằm ở góc, thỉnh thoảng vẫn bị nước dềnh lên lôi ra lềnh bềnh một lúc. Mỗi ngày một người rụng trung bình 200 sợi tóc. Nhưng ngày nào cũng nhặt tóc rụng, mỗi sợ dài từ đầu xuống đến eo, cuốn quanh ngón tay cái mớ đấy, ai mà tin được là chỉ có 200 sợi.
Cái bụng vẫn ngâm ngẩm, nhưng không thấy ọc ạch lục bục sôi.
Tí nữa sẽ phải đi đổ rác. Tóc; mùi; một quả nectare mốc héo quắt đáng lẽ đã là món tráng miệng bữa trưa; mùi; một khúc xúc xích nhiều mỡ, to và rẻ - vì nhiều mỡ - trên bao bì bảo là A consommer dans les 48h après ouverture mà hôm nay là 1 tuần rồi; tóc; 4 lát bánh mì trong đó 3 lát rưỡi bị mốc màu xanh cổ vịt, anh chị em những lát này đang nằm trong bụng mà chưa được thẩm định xem có tí trang sức xanh cổ vịt nào không; tóc; những cái vỏ trứng; vỏ khoai tây, vỏ hành, vỏ hộp đựng thịt đông lạnh; mùi; tro những cây hương có mùi tre rừng; tóc; vỏ nến đốt tinh dầu có mùi ocean; tóc; mùi; không có đót và tàn thuốc lá – gần 1 tháng rồi, không có vỏ chai vang 3 euros khủng khiếp – cái ấy phải vứt riêng; không một cái hóa đơn siêu thị nào. Hóa đơn Monoprix, Super U, Darty, Monoprix, Castorama, Monoprix, Tati, Ed, Tati, Monoprix đều được cất trong tủ. Không biết để làm gì. Cùng với vé metro, hóa đơn Orange, với hóa đơn Mc Donald, Quick. Với vé máy bay một chiều.
Vẫn còn có hộp pa tê gan ngỗng béo – lại béo – với hộp nước xốt cà chua hôm trước làm pasta còn thừa lại một ít, bơ, một củ khoai tây, mứt cam, 3 hộp sữa chua không đường không vị không gì cả, một ít nước cam đóng hộp, 2 cây hành, một quả trứng – phải cẩn thận với quả trứng cuối cùng, bột mỳ, gạo, đường, dầu rán, muối, bột gà knorr, hạt tiêu. Vẫn còn cà phê cappuccino pha sẵn, le Magazine Littéraire số mới nhất, trà hoa cúc, A Moveable Feast, bánh quy, Quê hương tan rã, bánh đa nem, Directing the documentary, Miso soup đóng gói ăn liền, The book of Laughter and Forgetting, etc.
Thôi thế cũng tạm. Bữa tối sẽ có khai vị bằng trứng rán rắc tí muối, món chính là khoai tây xào hành với chuyên đề về Arthur Rimbaud và tráng miệng bằng sữa chua trộn débat “L’écrivain est-il toujours un exilé?”.
Ngày mai, hay ngày kia? Sẽ thực hiện giấc mơ cà chua nhồi thịt trộn fromage rán ăn với cơm gạo tám Thái Lan. Không không, không phải vì túng đến độ Marco Frogg, mà vì đang sẵn tưởng tượng ăn gì vào rồi sẽ nôn ra chi tiết như thế nào, chính xác là sẽ nổi lên từ cái đống ấy một sợi tóc đen, dài, cong lên, trên đường cong còn vương theo một giọt chất lỏng đùng đục. Nhưng cứ càng buồn nôn thì càng mơ tới thức ăn, rồi mơ nôn, rồi mơ ăn rồi nôn ra rồi ăn vào rồi nôn ra.
Chưa, chưa đâu. Chưa nôn.
Sốt với một khoái cảm rùng mình nuốt lấy toàn thân, từ gót chân hồng hồng vẫn chưa nổi chai tới những sợi tóc rụng trong thùng rác hay thả bay ngoài cửa sổ 1m40 x 2m tầng 6 (hoặc 7).
Friday, August 28, 2009
Bạn Cill
Monday, August 24, 2009
Monday, August 10, 2009
Mad world
Mad World - Gary Jules
Songwriters: Orzabal, Roland;
All around me are familiar faces
Worn out places, worn out faces
Bright and early for their daily races
Goin' nowhere, goin' nowhere
Their tears are fillin' up their glasses
No expression, no expression
Hide my head I want to drown my sorrow
No tomorrow, no tomorrow
And I find it kind of funny
I find it kind of sad
The dreams in which I'm dyin'
Are the best I've ever had
I find it hard to tell you
'Cause I find it hard to take
When people run in circles
It's a very, very
Mad world, mad world
Children waitin' for the day they feel good
Happy birthday, happy birthday
Made to feel the way that every child should
Sits and listen, sits and listen
Went to school and I was very nervous
No one knew me, no one knew me
Hello teacher tell me what's my lesson?
Look right through me, look right through me
And I find it kind of funny
I find it kind of sad
The dreams in which I'm dyin'
Are the best I've ever had
I find it hard to tell you
'Cause I find it hard to take
When people run in circles
It's a very, very
Mad world, mad world
A raunchy young world
Mad world
Thursday, August 6, 2009
Nam tước đã thăng về trời
Monday, August 3, 2009
Bro'
1. 1. Căn nhà có hai tầng. Có vẻ như tôi vẫn thích đứng ở trên cửa sổ tầng 2 bên mặt quay ra khoảnh sân nhỏ nhìn xuống cổng lớn trước nhà. Cổng lớn quay ra đường. Con đường sau cổng to nhỏ thế nào, có gần ngã tư không, có cây sấu thân to rụng đầy hoa mùa thu thơm thơm hay cây sưa nở trắng xóa cả tháng tư trong có một ngày hay không, tôi không biết. Tôi không có ấn tượng gì với cái sân cả. Chẳng rõ nền bằng đất, hay xi-măng, hay trải cỏ. Không biết có cái xích đu nào không. Tôi muốn nó có cây táo và cây hồng xiêm, hai cái cây lớn hơn tuổi tôi, đã thi nhau nổi rễ lên làm sân gạch khấp khểnh, chẳng đi giày cao tôi cũng vấp. Tôi vốn đã hay bị vấp. Có lẽ tai trong bị sao đó. Nhưng cái sân hình như không có cả cây lẫn cỏ.
Tôi đứng ở trên cửa sổ tầng hai nhìn xuống. Cả phía đó là tường kính. Tôi không nhìn thấy gì phía ngoài cổng, nhưng người ở ngoài sẽ thấy tôi từ đầu tới chân. Lúc này tôi chưa đọc blog của qt nên tôi chưa cho gọi lại dục vọng được không mặc gì đi lại loăng quăng trong nhà luôn bị tôi xua đuổi. Lúc này tôi đang đứng bên cửa cố nhìn vào chỗ không nhìn thấy gì. Em trai tôi sáu tuổi. Nó bé tí teo nên tôi không thể biết nếu nó muốn trốn vào đâu, Nhưng tầng hai này chỉ có một phòng. Bé. Và không đồ đạc. Sàn nhà ánh lên đen bóng màu gỗ lim mòn vẹt do người đi lại nhiều. Em trai mặc áo sơ mi trắng ngắn tay và quần soóc xanh đen ngồi trên sàn cách tôi ba hay bốn bước chân. Mặt nó buồn thiu nước mắt lưng lửng, như hai lát bánh mì kẹp thịt hun khói bị nước cà chua trong nhân ngấm ra làm mềm oặt được mẹ (hay là tôi nhỉ?) gói vào túi để sẵn trong cặp nó. Tôi nhớ là tôi đã hứa đi cùng nhưng không biết vì sao lại cứ đứng đấy, nhìn ra ngoài, hình như là chờ xe bus đến, rồi lại nhìn nó. Tôi ngồi xuống bên cạnh, nói chuyện như với một người chững chạc đang đấu tranh tư tưởng ghê gớm. Tôi muốn nó hiểu đi học lớp một không phải là cực hình. Nó sẽ có bạn mới, nó sẽ ngồi cạnh một bạn gái tóc thắt bím và má bánh đúc chẳng hạn, ra vẻ ngay ngắn nhìn lên bảng nhưng thực ra là đang nghĩ cách tặng hàng xóm cục tẩy xanh lơ nó thích nhất để con bé cho nó cầm tay dung dăng dung dẻ lúc tan trường. Nó sẽ là đứa dũng cảm quân tử nghĩa hiệp, bênh bạn yếu và đấm tím mắt thằng nào láo lếu dám lục lâm thảo khấu bắt nạt ra oai, và đặc biệt thằng nào chọc con bé thắt bím. Như thế con bé sẽ hôn má nó để đội ơn. Nó đẹp trai rắn rỏi phong trần chứ không búng ra sữa tròn quay hoặc dặt dẹo ẻo lả ốm o. Nó hỏi tôi chị có tới đón em không có lén lút đứng ngoài nhìn nó dõng dạc phát biểu cả lớp nhìn lên ngưỡng vọng mà thầm tự hào có dắt nó đi chơi ăn kem hoặc đánh điện tử mario cùng khi nào có điểm tốt.
Rồi chuông cửa kính koong kính koong. Tôi buộc dây giầy lại cho nó, rồi cầm cặp với bi-đông nước bước theo sau. Nó lao xuống tới lưng chừng cầu thang phía dưới hướng ra cổng thì dừng lại. Chuông cứ kêu liên hồi sốt ruột. Hình như xe bus tới. Phải nhanh lên. Nó đứng ì ra đấy, bấu chặt tay vịn. Ánh sáng hắt lại quá chói, tương phản mạnh với phía lưng nó quay về tôi, nuốt dần lấy các chi tiết đường viền cơ thể bé bỏng. Cái ánh sáng phía sau cánh cổng nhức nhối mắt. Tôi thì cứ đứng nhìn trân trân em trai tan dần vào đó.
Chuông vẫn cứ giục. Tôi kèm nhèm ú ớ đầu bù tóc rối ra mở cửa. Bố về. Đồng hồ chỉ 6.30. Nghĩa là sao nhỉ? Thằng em tôi hôm nay đi tựu trường đây mà. Nó học đâu tận Mỹ Đình. Trường cấp 3 Việt -Úc mới to đẹp lắm, tôi chưa được nhìn tận mắt. Xe bus sẽ qua đón hàng sáng thế này. Bố tôi vừa đưa nó ra xe. Mẹ tôi chậm trễ như vẫn thế nên xuống tới nơi thì xe đã đi rồi, không kịp nhìn con giai lên đường. Tôi thì vừa nằm mơ thấy nó đi học lớp 1.
10 năm trước sự thể không như thế kia. Nhà tôi cũng không giống thế (một tí nào). Em tôi có thể đã thế, nhưng nhìn nó bây giờ tôi không ngờ. Giống như thằng cu lớp 1 em tôi bị đánh tráo lúc tôi lơ là quay mặt khỏi, như là em trai trong mơ của tôi bị ánh sáng lóa mắt nuốt đi mất rồi. Mà tôi sống với nó suốt đấy chứ, vẫn cứ lạ lẫm thế nào. Nó chào ai cũng lí nhí tôi phải tăng volume bằng một cái lườm cháy mặt kêu xèo xèo. Nó nghiện video game chém giết cười sằng sặc nên bị hãm chỉ được mở máy cho chơi 2 tiếng/ngày, thế là nó tìm cách phá code máy tính. Bố mẹ tôi lại khóa cửa phòng, nó tìm cách trèo qua ban công cách mặt đất 60m đột nhập vào, ngu ngốc. Nó không thích đọc. Nó đỗ vào cả 2 trường đều thừa điểm nhưng không phân biệt được quả cóc với quả sấu. Tôi hỏi ở trường có được học về hiếu lễ, về sự và cách quan tâm tới người lạ và quen không, nó bảo có sơ sơ và không nhớ gì. Liệu nó có biết đỡ người già qua đường bao giờ? Nó ỷ lại và ích kỷ, ơ hờ dửng dưng... Nó có cả những đặc điểm tôi ghét nhất ở một thằng đàn ông.
Mea culpa! Tôi không tốt đẹp như trong giấc mơ nó lớp 1 kia, thủ thỉ và săn sóc ấu yếm. Hồi ấy tôi mải mê tuổi 17 bỏ quên nó lủi thủi chơi một mình. Bây giờ tôi có thể gấp quần áo cho bạn tôi nhưng chỉ đay nghiến gào thét khi thấy tủ quần áo nó lộn tùng phèo. Tôi trút những cơn dằn dỗi bực tức ở đẩu đâu lôi về nhà khi nó ăn uống hậu đậu rơi vãi. Tôi áp đặt quan điểm về gentleman và ước ao nhào nặn nó thành ít nhất thì cũng phải là một cool guy (theo định nghĩa của tôi) để mà tôi có thể vênh vang tự hào em tôi đấy. Tôi muốn nó không chải chuốt nhưng mà gọn gàng khỏe khoắn, không kiểu cách hãnh tiến nhưng mà lịch lãm phong lưu, không phô trương học thức nhưng mà hiểu biết thực lực, và đặc biệt nhân nghĩa lễ trí tín là phải đủ. Tôi đồ rằng nó không hiểu nghĩa của những từ này.
Tôi bị sao nhỉ? Bạn tôi bảo nó có phải con tôi đâu. Đúng. Tôi không có trách nhiệm với tính cách hay năng lực hay tương lai nó. Nhưng nhìn vào nó tôi hoang mang về một sản phẩm của gia đình, nhà trường và xã hội đồng thời là tương lai của xứ này. Tôi hoảng hốt không tìm ra nguyên nhân và không biết phải làm gì.
Làm gì khi mà tôi, là tôi, chị nó, đôi khi căm ghét một cách không cố ý?
Chỉ biết để cho lương tâm gặm nhấm tôi lỗ chỗ nhay đi nhay lại bứt rứt.
Tôi muốn banh cái chỗ bứt rứt ấy ra để ngó vào xem cái sự ghét đấy có thật không, hay chỉ là một tức tối sưng tấy do kỳ vọng không được đáp ứng.
Bố mẹ tôi ngồi kiên nhẫn đợi nó qua tuổi dậy thì. Tôi thì như con qủy nhảy chồm chồm giận dữ nóng nảy.
Hôm qua con quỷ trong vai thiên thần đưa nó đi chơi và sắm đồ cho nó. Đến tối nó sẵng với bố tôi lại muốn gào thét thoát ra.
2. 2. Có blog đọc ngưỡng vọng như học trò khoanh tay nuốt từng lời thày, có blog hút vào như mê cung từ ngữ ký tự lắt léo muốn khám phá cho ra, có blog đọc như thấy đang ngồi ngoài sân cho mẹ chải tóc, còn nhà một bạn mới được chị So giới thiệu này thì vào đọc thấy như sướng lúc thẩm du.
Friday, July 31, 2009
Cuối tuần
Monday, July 27, 2009
Thắc mắc
Friday, July 17, 2009
Thế là xong (một ít)
Wednesday, July 15, 2009
Saturday, July 11, 2009
6th sense
Sản phẩm có thật do học viện Công nghệ Massachusetts MIT trình làng chứ không phải Minority Report của anh Tom Cruise. :D
Friday, July 10, 2009
Behind the Violence in Xinjiang
Published: July 9, 2009 in The New York Times
HONG KONG — The eruption of ethnic violence in China’s Xinjiang Uighur Autonomous Region, the most deadly recorded in decades, seems to have taken both Beijing and the world by surprise. It should not have.
The violence, coming on the heels of massive protests in Tibet less than 18 months ago, reflects the profound failure of Beijing’s policies toward national minorities, whose areas represent almost four-fifths of the country’s landmass but whose population makes up only 8 percent of China’s 1.3 billion people.
The Uighur people, much like the Tibetans, have a history, culture, religion and language distinct from the rest of China. Their homeland, the ring of oases that formed the backbone of the Silk Road in ancient times, was only incorporated into the Chinese empire in the 18th century.
And the effective colonization of Xinjiang only started after 1950s, when Beijing began to settle People’s Liberation Army soldiers who had put down the short-lived independent East Turkestan Republic (1944-1949) on military state farms. The proportion of Han Chinese in the population of Xinjiang leaped from 6 to 40 percent as a result of state-sponsored population transfers from other parts of China.
A second massive assimilation drive was initiated in the 1990s, prompted in part by the collapse of the Soviet Union in 1991 and Beijing’s fear of instability in the region. This time, instead of relying on forcible population transfers, Beijing created economic incentives to attract new Han settlers. In less than a decade, an ambitious program called the “Big Development of the Northwest” brought between one and two million new Chinese migrants to Xinjiang.
Economic development surged, spurred by a combination of massive subsidies, oil exploitation and rapid urbanization. But the Uighurs were not part of the rising tide. Resentment over job discrimination and loss of lands swelled, combined with anger at China’s religion policies and the stream of new settlers.
The government’s response was purely repressive. Already sharp limits on religious and cultural expression were further tightened. Any expression of dissent became synonymous with advocating “separatism” — a crime under Chinese law that can carry the death penalty.
Any sign of ethnic distinctiveness outside of the sanitized version promoted by the state was denounced as a plot by “separatist forces abroad.” After a failed uprising in the city of Yining in February 1997, the authorities launched a massive crackdown that led to tens of thousands of arrests and dozens of executions.
For most Uighurs, Xinjiang increasingly became a police state, where they lived in fear of arrest for the slightest sign of disloyalty toward Beijing.
Even prison officials started to complain to Beijing that prison and labor camps across the region had become jam-packed. Isolated acts of anti-state violence, such as the assassination of Uighur “collaborators,” attacks against police stations and the explosion of two bombs in Urumqi buses in February 1998 only reinforced the determination of the state to increase its repression.
After the Sept. 11 attacks in the U.S., the Chinese began to justify its campaigns in Xinjiang as a contribution to the global war on terror. China also used its growing international influence to secure cooperation from neighboring states to arrest and deport Uighurs who had fled persecution.
Although there is no dispute that clandestine Uighur groups have from time to time carried out violent attacks — most recently in a series of bombings and attacks on Chinese soldiers just before the Olympic Games — the massive propaganda offensive about the threat of “East Turkestan” terrorism drove Chinese public opinion toward an even more negative perception of the Uighur people, who in turn felt increasingly ostracized and discriminated against.
Beijing’s accelerated attempt over the past few years to forcibly refashion Uighur identity has also fueled growing resentment. Following Xinjiang Party Secretary Wang Lequan’s declaration in 2002 that the Uighur language was “out of step with the 21st century,” the government started to shift the entire education system to Mandarin, replacing Uighur teachers with newly arrived Han Chinese. The authorities also organized public burnings of Uighur books. Control over religion was extended last year to prohibit traditional customs such as religious weddings, burials or pilgrimages to the tombs of local saints.
Earlier this year, the government suddenly announced plans to raze the city of Kashgar, the centuries-old cultural center of the Uighur civilization and one of the only remaining examples of traditional central Asian architecture. In a few weeks, the old city will have almost entirely disappeared, forcing out 50,000 families to newly constructed, soulless modern buildings.
This is the backdrop against which Uighurs reacted to graphic images circulating on the Internet last week of Uighur workers being beaten to death by Chinese coworkers in a Guangdong factory. They took to the streets.
Unless the government addresses the root causes of ethnic tensions and ends its systemic human rights violations, the chances of more violence will remain high.
Nicholas Bequelin is a senior Asia researcher for Human Rights Watch.
Trăng trên thành cổ
Mượn bạn Youtube bài này buồn như chấu cắn, phần dịch lời sang tiếng Anh không biết của ai mà hay hay là.
Cherry blossoms gracefully bloom o'er the fields that lie,
High up is the castle wall, where have warriors gone?
Where is the moonlight that brightly shone up high,
Shone upon the warriors who drained the glasses dry?
White frost o'er the autumn camps freezing the whole night,
Flocks of wild geese cry and pass just below the moon.
Where is the moonlight that might have shone so bright,
Shone upon the warriors' swords gleaming through the night?
Oh, the moon is rising high in the depths of night,
Silent is the ruined site lying on the ground,
Ivies creep o'er the gate in the cold moonlight,
Rustling are the pine trees through the windy night.
To rise and fall is people's fate, the moon shines so bright,
Looking down upon the world lying far below,
How sublime the moonlight o'er the ruined site,
How I love the moon that shines in the depths of night!
荒城の月
春高楼の花の宴
めぐる盃 影さして
千代の松ヶ枝わけいでし
むかしの光今何処
秋陣営の霜の色
鳴きゆく雁の数みせて
植うるつるぎに照りそひし
昔のひかりいまいづこ
今荒城の夜半の月
変らぬ光誰がためぞ
垣に残るは唯かづら
松に歌ふはたゞ嵐
天上影はかはらねど
栄枯は移る世の姿
うつさんとてか今もなほ
ああ荒城の夜半の月
Karaoke tiếng Nhật :))
Haru koro no hana no en
Meguru sakazuki kage sashite
Chiyo no matsu ga e wake ideshi
Mukashi no hikari Ima izu ko
Aki jinei no schimo no iro
Nakiyuku kari no kazu misete
Uurutsurugi ni terisoishi
Mukashi no hikari ima izu ko
Ima kojo no yowa no tsuki
Kawaranu hikari ta ga tame zo
Kaki ni nokoru wa tada kazura
Matsu ni uto wa tada arashi
Tenjo kage wa kawaranedo
Eiko wa utsuru yo no sugata
Utsusan toteka ima mo nao Ah!
Kojo no yowa no tsuki
Tuesday, July 7, 2009
Xứ sở của nước và thạch thùng (tiếp theo và hết)
Annam, Annamite, Tonkin, Indochine, Cochinchine, Vietnam: xứ này có bao nhiêu cái tên tất cả? Nhắc lại điều Jean Tardieu đã quan sát về Tonkin: tính không phân biệt và “những chuyện đầu cua tai nheo bất tận”. Xứ này là thơ: tôi không ngừng lẫn lộn mọi thứ với nhau. Con thạch thùng này, ví dụ thế, thở ra một tiếng kêu như chim, đậu trên bức tường căn phòng trắng. Ô vuông cỏ này tôi không rõ là bãi cỏ hay đầm lầy. Và tất cả những người đạp xe-ma này nữa, một chiếc khăn che ngang mặt, hay những người phụ nữ vô hình chỉ để lộ ra đôi mắt huyền sau mặt nạ khăn trắng bảo vệ làn da trống lại mặt trời.
Phần lớn mặc áo vải chảy và quần lụng thụng, quá ít váy, qúa bất tiện khi đạp xe hoặc làm việc. Rất ít ngực, rất ít hông: bóng dáng họ khó phân biệt với bóng dáng đàn ông.
Bởi chẳng khi nào trắng hoàn hảo, nên những chiếc áo được điểm tô sọc nhỏ hoặc ca-rô nhẹ xanh nâu: vẫn là của đất những sắc màu, những đường nét khoác lên dân tộc này đến tận nội đô.
.....
Hình ảnh bí ẩn: những tạo vật này kết thúc ở một đỉnh. Những cái đầu có dáng chóp nhọn. Các cô gánh gồng, kéo những chiếc xe thồ hay đạp lóc cóc dưới mưa, cái chao đèn bằng rơm ấy, tôi không biết phải nói thế nào, cho họ cái vẻ trẻ thơ và như là hoa cỏ. Những bóng dáng gần như bí hiểm: bằng cả thân mình, vươn về phía trời hay trĩu xuống mặt đất. Ấy là ngôn ngữ là nhận dạng của cảnh sắc, là mái nhà và những chiếc chuông biết đi.
Tưởng tượng xem những chiếc mũ như thế trên đầu những tay thủ lĩnh khổng lồ Texas hay Kavkaz? Cảm động đến vậy chỉ có thể là cái cách chiếc nón điểm thêm vào tấm thân mảnh dẻ và ôm trọn gần như cả cổ và đôi bờ vai. Người phụ nữ quẩy quang gánh như một cánh cung với cái nón làm tên bắn.
.....
Mộ chí quây thành từng cụm giữa đồng. Người chết nuôi người sống; họ kia, rất gần, chăm chút cỏ mọc dầy, và tràn trề lúa gạo. Họ say giấc hay dùng bữa cùng người. Người dâng họ hàng tập tiền đỏ, những ngôi nhà bìa, những đôi dép giấy, cái máy nghe đài, cái vô tuyến giả, quạt mát, xe đạp hay xe máy, đồng hồ để xem giờ ở thời vĩnh cửu. Người chủ tâm làm ra một cõi hư ảo. Một thể thơ đỏ và vàng chôn chặt trong hòm gỗ lớn, cũng đỏ và vàng, nơi đón nhận di hài của họ. Người chết giống những bài thơ. Đời họ như là bằng giấy.
.....
Hãy tưởng tượng một thành phố được thiết lập như thế: hai hay ba hồ nước xanh, một nhà thờ lớn xám, mấy ngôi chùa vàng và tía, với một lượng phố xá thế này: phố khuy cúc, những chiếc khóa kéo và len hàng cuộn, phố ống xả và chụp trục bánh xe, phố đồ cúng người chết, phố dép, phố đồ chơi trẻ em và sách vở, phố khóa và chìa, phố gấu bông, mũ và nịt ngực, đại lộ quạt máy, phố tre trúc và thang, phố kẽm và sắt tây, phố điện, phố búa với liềm, phố đồng hồ thạch anh, phố complet veston, phố chẳng bắt đầu hay kết thúc ở đâu hết cả, phố ngang qua đời và hòa vào đó những người qua kẻ lại.
.....
Ở Văn Miếu, những con rùa chở trên mai nặng nề, trong vĩnh cửu, những tấm bia Tiến sỹ thuộc nằm lòng biên niên ký những xuân lại đến thu.
Một người phụ nữ chơi nhạc, vỗ tay trước một dàn sáo lớn kiểu đàn phiến gỗ, ghép bằng thân sậy. Một phụ nữ khác hòa tiếng gõ phách lên đầu con ếch gỗ bằng một cái que.
Có thể ngạc nhiên lớn nhất đợi chờ người lữ hành là đây: những hình ảnh không phải vậy, và sự thực có vẻ tưởng tượng. Ảo ảnh du lịch hiện ra rồi biến mất quá nhanh, bị cái nhầm lẫn và cái mới quyến rũ, mà không được biết tới sức nặng của chiếc xe thồ, của cái cày hay đòn gánh, cũng như không được biết tới cái mềm mại hay độ dài của giấc ngủ say, mệt lử đử bên vệ đường, gần đống dưa hấu hay đu đủ.
Chuyến đi xa cho ta tưởng tượng về những bản sắc khác và những quen biết khác. Nhịp điệu khác. Cách yêu và được yêu khác. Nó cho ta hy vọng về những cơ may. Nó muốn tin vào những chân trời: những cuộc đời mơ mộng, những cuộc đời mở rộng.