Wednesday, February 24, 2010

Không mặt trời - Nỗi khiếp sợ. Nó có mặt và có tên.


Sans Soleil (1985) - Chris Marker - P.7
Anh viết cho tôi: “Ở tận cuối những khu chợ thiết bị điện tử mà những cô nàng quá khích dùng làm đồ trang sức, trong bản nhạc Tokyo có một thứ đặc biệt mà sự hiếm hoi ở châu Âu kết buộc mình án lưu đày âm thanh thực: đó là nhạc của những trò chơi điện tử.
Họ được chạm khảm hẳn vào bàn, ta có thể uống, ta thể ăn trong khi vẫn đang chơi. Họ mở ra về mặt phố. Khi nghe họ ta có thể chơi trong trí nhớ.
Mình đã thấy những trò chơi này ra đời ở Nhật. Rồi mình gặp lại chúng khắp nơi trên thế giới, nhưng có một chi tiết khác: từ đầu đấy là một trò chơi nối tiếng: một loại chiến đấu phản sinh thái học mà người chơi phải giết ngay khi ló ra đầu của những tạo vật mà mình chưa xác định được ấy là những con chuột đồng hay là những chú hải cẩu con. Bây giờ đến lượt những khác biệt Nhật Bản: thay vào những con thú là những cái đầu người lờ mờ được xác định bằng một miếng étiquette. Trên đỉnh là Chủ tịch – tổng giám đốc. Trước ông này là phó chủ tịch và các giám đốc. Ở hàng đầu là những trưởng bộ phận và giám đốc nhân sự. Anh chàng mà mình quay phim này đập tới tấp những thứ bậc này với một năng lượng đáng ghen tị cho mình thấy rằng trò chơi này với cậu ta hoàn toàn không phải là phúng dụ, rằng cậu ta có những suy nghĩ rất rõ ràng về những cấp trên này của mình. Vậy hiển nhiên vì sao mà con rối đại diện cho vị giám đốc nhân sự thường xuyên bị đập mạnh đến nỗi nó nó không dùng được nữa, và người ta phải thay một con hải cẩu con vào đấy.
Hayo Yanianeko phát minh ra trò chơi điện tử với cái máy riêng. Để làm mình vui, anh bỏ vào đó những con vật mình yêu nhất: con mèo và con cú.
Anh chắc rằng chất liệu điện tử là thứ duy nhất có thể xử lý được tình cảm, ký ức và trí tưởng tượng.
Arsen Lupin của Mizoguchi, ví dụ thế, hay là Burakumin không kém phần giàu tưởng tượng hơn. Làm thế nào có thể khẳng định giới thiệu một loại người Nhật không tồn tại. Có, họ ở đó, mình đã thấy họ ở Osaka bán thân làm thuê ban ngày và ngủ ngay trên đất, từ thời Trung Cổ họ đã phải nai lưng làm những công việc bạc bẽo bẩn thỉu không ra gì, nhưng từ thời Minh Trị không có gì chính thức phân biệt đối xử họ, và tên thực sự của họ, những Eta, là một từ kiêng kị không được đọc lên. Họ là những phi-nhân (non-persons), làm sao mà thấy được họ, ngoại trừ bằng những phi-hình ảnh?
Những trò chơi điện tử là những bậc đầu tiên trong một kế hoạch máy móc hỗ trợ nhân loại, kế hoạch duy nhất dành cho trí thông minh một tương lai. Hiện giờ, triết học chưa vượt qua được của thời đại chúng ta được chứa đựng trong Pac-Man. Mình không biết là hy sinh những tờ 100 yên cho anh có làm anh thu phục được thế giới không. Có thể, bởi vì ang là ẩn dụ hình họa hoàn hảo nhất về số phận con người. Anh có thái độ đúng đắn trong những quan hệ quyền lực giữa cá nhân và môi trường, và anh báo cho chúng ta biết một cách giản dị rằng cho dù có một niềm vinh dự dành cho con số lớn nhất những cuộc tấn công thắng lợi, thì cuối cùng vẫn luôn luôn là một kết cục rất tệ.
Anh luôn hài lòng thấy cùng những bông cúc thược dược ấy xuất hiện trong những đám tang của người lẫn của thú. Anh tả cho tôi nghe về lễ tưởng niệm tổ chức tại sở thú ở Ueno dàng cho các con thú đã chết trong năm qua. Trong hai năm liền ngày than khóc này phủ thêm màu tang tóc bởi cái chết của một con panda – Còn nặng nề – theo báo chí – hơn cả cái chết của vị thủ tướng cũng xảy ra đồng thời. Năm ngoái người ta khóc rất nhiều. Giờ có vẻ như họ đã quen dần, chấp nhận việc mỗi năm cái chết cướp đi một con panda như là rồng mang đi những cô gái trẻ trong truyện cổ tích. Mình nghe thấy câu này: “Vách ngăn chia cắt cuộc sống với cái chết với chúng tôi không dày như là với người phương Tây.” Điều mình thường đọc thấy nhất trong mắt những người sắp chết là sự ngạc nhiên. Điều mình đang đọc được bây giờ trong mắt những trẻ em Nhật Bản là sự tò mò. Cứ như thể chúng đang cố - cốt để hiểu cái chết của một con vật – là nhìn chằm chằm xuyên qua cái vách ngăn kia.
“Mình trở về từ một đất nước nơi cái chết không phải là vách ngăn để bước qua mà là một con đường để đi tới. Cụ tổ của người Bijago đã tả cho chúng ta hành trình của những người chết, và làm thế nào họ đi từ đảo này sang đảo nọ theo một nghi thức nghiêm cẩn cho tới bờ biển cuối cùng, nơi họ đợi con tàu để tới thế giới bên kia. Nếu tình cờ ta gặp họ, điều tối quan trọng là không được nhận ra họ.
Những người Bijago là một phần của Guinea-Bissau. Trong một tài liệu cũ, Amilcar Cabral vẫy chào vĩnh biệt bờ biển – ông ta có lý, ông mãi mãi không bao giờ trở lại nơi này. Luís Cabral đã vẫy y như vậy 15 năm sau trên một chiếc ca nô mang chúng tôi trở lại. Guinea khi ấy đã trở thành một quốc gia và Luís là chủ tịch nước. Tất cả những người còn nhớ về chiến tranh đều nhớ về ông. Ông một nửa là em trai của Amilcar, sinh ra với hai dòng máu Guinea và Cape Verde, và ông là thành viên sáng lập của đảng PAIGC (Đảng châu Phi cho độc lập của Guinea và Cape Verde), một đảng kỳ lạ, đã thống nhất hai đất nước bị đô hộ trong một phong trào đấu tranh duy nhất, ông mong muốn trở thành người báo trước về một liên hiệp hai quốc gia. Mình đã nghe câu chuyện này từ những cựu chiến binh quân nổi dậy, những người đã chiến đấu trong những điều kiện phi nhân tính tới mức họ thương hại những người lính Bồ Đào Nha đã phải chịu những gì chính họ cũng phải chịu. Mình được nghe chuyện này, cùng với rất nhiều nhưng điều khác gây xấu hổ những ai đã dùng quá dễ dàng – cho dù là một lần, và do bất cẩn – từ “quân nổi dậy” (guerilla) để chỉ một phong cách làm phim nào đó… Một từ vào thời gian đó dính dáng tới rất nhiều những cuộc tranh cãi lý luận, và còn cả tới những chiến thắng xương máu trên mặt đất nữa.
Amilcar Cabral là người duy nhất dẫn dắt một cuộc chiến tranh nổi dạy thắng lợi, và không chỉ với nghĩa tiến công quân sự. Ông biết dân tộc ông, ông đã nghiên cứu về họ một thời gian dài, và ông muốn mỗi vùng được giải phóng trở thành tiên phong cho một kiểu xã hội khác. Những quốc gia xã hội biết phải phải trang bị cho binh lính bằng gì. Những nước dân chủ xã hội biết phải chất đầy các cửa hàng của dân bằng gì. Có thể cánh cực tả tha thứ cho lịch sử nhưng nếu quân nổi dậy như cá trong nước, ấy gần như là nhờ có Thụy Điển. Amilcar không sợ những cái khó hiểu, và ông biết cả những cái bẫy. Ông viết: Người ta nói rằng chúng tôi đứng trước một dòng sông lớn đầy sóng gió và bão tố, có những người cố vượt qua và những người chết chìm, nhưng họ không có lựa chọn nào khác ngoài sang bờ bên kia…
Và bây giờ chuyển cảnh sang Cassaca, ngày 17 tháng 2 năm 1980 – nhưng để hiểu đúng về nó cần phải đẩy nhanh thời gian lên nữa: một năm sau, chủ tịch nước Luís Cabral sẽ bị vào tù, và kẻ khóc lóc mà ông vừa trao tặng huy chương, tư lệnh Nino, sẽ lên nắm quyền. Đảng sẽ tan vỡ, những người Guinea và những người Cape Verde chia rẽ sẽ tranh giành nhau di sản của Amilcar. Người ta sẽ học được rằng phía sau buổi lễ thăng chức này, trong mắt những vị khách mời đọng lại mãi tình đồng chí trong cuộc chiến đấu, còn có sâu thẳm một nỗi cay đắng của những ngày sau chiến thắng, rằng những giọt nước mắt của Nino không nói lên cảm xúc của một cựu chiến binh, mà là nỗi kiêu hãnh bị tổn thương của người hùng không được nâng cao đủ để vượt lên trên những người khác. Và dưới mỗi gương mặt này có một ký ức. Và ở đó nơi họ muốn làm ta tin vào một ký ức tập hợp được tạo ra, hàng ngàn ký ức của những con người đã diễu hành vết thương riêng của mình trong viết thương lớn của Lịch sử… Ở Bồ Đào Nha, do phần Bissau ào ào dồn dập, tới lượt Miguel Torga, người đã đấu tranh cả cuộc đời chống lại sự độc tài đã viết: Mỗi nhân vật chỉ đại diện cho chính mình… Thay vì một sự thay đổi toàn xã hội, anh ta chỉ đơn giản là tìm kiếm trong hoạt động cách mạng sự thăng hoa của hình ảnh chính mình… Nói chung, đó cũng như là những cơn sóng cồn lại đổ ập xuống, và bằng một cách nhìn rõ trước được đến mức cần phải tin vào một chứng bệnh quên của tương lai mà Lịch sử phân phối qua lòng nhân từ hoặc qua tính toán cho kẻ mà nó tuyển mộ. Amilcar bị ám sát bởi chính một thành viên trong đảng của ông, những vùng được giải phóng bị rơi vào ách của những kẻ bạo chúa tiểu nhân khát máu, đến lượt chúng bị thanh toán bởi quyền lực trung tâm mà tất cả sẽ ca tụng sự vững vàng cho tới một cuộc đảo chính có vũ trang… Lịch sử vừa tiến lên như vậy, vừa nút lại ký ức như người ta nút hai tai. Luís lưu vong sang Cuba, Nino đến lượt mình khám phá ra âm mưu ngấm ngầm chống lại mình, họ có thể sẽ luôn được dẫn ra trước lịch sử, lịch sử không hiểu gì, nó chỉ có một đồng minh duy nhất, kẻ mà Brando đã nhắc tới trong Apocalypse Now: Nỗi khiếp sợ. Nó có mặt và có tên.
Mình đang viết cho bạn từ một thế giới khác, một thế giới của bề ngoài. Bằng một cách nào đó, hai thế giới giao tiếp với nhau. Ký ức đối với bên này là Lịch sử đối với bên kia. Một sự bất khả. Những huyền thoại sinh ra từ nhu cầu giải mã cái bất khả giải mã. Những ký ức cần phải hài lòng với hoang tưởng, với lệch pha của chúng. Một thời khắc dừng lại có thể cháy như một tấm phim bị giữ lại trước lò đốt của máy chiếu phim[1]. Sự điên cuồng chống chọi hay cơn sốt cũng vậy. Mình ghen tị với Hayao và Zone của anh ấy. Anh chơi với những ký hiệu của ký ức, anh ghim chúng xuống và trang trí chúng như những con côn trùng có lẽ đã từng bay trong thời gian và anh có thể lặng ngắm từ một điểm phía bên ngoài thời gian – cái vĩnh hằng duy nhất còn lại với chúng ta. Mình nhìn những cái máy của anh ấy, mình nghĩ tới một thế giới nơi mỗi ký ức có thể tự tạo nên một huyền thoại riêng của mình.”



[1] Những máy chiếu phim cổ có bộ phận carbon arc lamp gọi là lò đốt - nguồn sáng - có miệng lò nơi từng khuôn hình phim đi qua - http://einhornpress.com/hazard.aspx

No comments:

Post a Comment